Miếu Ngà ở thôn Liễu Kinh, xã Việt Tiến (cũ), nay là xã Vĩnh Thịnh. Đây là một làng cổ, trước có tên gọi là Kênh Trang. Đến thời Lê, tên Kênh Trang được đổi thành Liễu Kinh và có tên nôm là làng Ngà. Tên Ngà còn được gắn với các công trình văn hoá, tín ngưỡng của địa phương như: chợ Ngà, chùa Ngà, miếu Ngà.
Miếu Ngà là một công trình kiến trúc cổ được nhân dân xây dựng để tôn thờ Nguyễn Chính-nhân vật lịch sử thời Trần (thế kỷ XIII). Theo thần phả ở địa phương, nơi công trình toạ lạc trước kia là chốn quân doanh của vị Thành Hoàng họ Nguyễn. Về lai lịch và công lao của ông, thần phả cho biết: Nguyễn Chính quê ở đạo Kinh Bắc, có nhiều gắn bó với Trang Kênh, từ nhỏ được học hành, lớn lên là người nổi tiếng văn, võ toàn tài. Khi vua Trần Thánh Tông (1258-1278) mở khoa thi, tìm người hiền tài giúp nước, ông trảy kinh ứng thi và được bổ nhiệm chức “Từ Hàn”, giúp việc triều đình. Lúc làm quan ở Hồng Châu (tức vùng Hải Dương, Hải Phòng ngày nay), ông cho lập hành cung ở Trang Kênh. Trong trận đại chiến trên sông Bạch Đằng lịch sử do Quốc Công tiết chế Trần Hưng Đạo chỉ huy chống quân Nguyên Mông xâm lược lần thứ III (1287-1288), Nguyễn Chính cùng với một số tướng khác ở khu vực Vĩnh Bảo như: Hoa Duy Thành, Vũ Đăng Dũng, Lương Toàn...góp nhiều công lao đánh tan quân giặc.
Với chiến thắng Bạch Đằng, Nguyễn Chính được nhà vua ban thưởng và phong thêm chức tước, rồi trở về Kênh Trang xây dựng xóm làng. Sau khi ông mất, nhân dân địa phương ghi nhớ công ơn, lập miếu thờ ông đến ngày nay.
Miếu Ngà được xây dựng khá sớm, phong cảnh sơn thuỷ hữu tình, mặt tiền quay hướng Bắc. Phía trước xưa kia có dòng sông Giếc được đào từ thời nhà Mạc chảy qua, nay là hồ rộng, nước trong veo. Theo thuyết phong thuỷ, đó chính là nơi tụ thuỷ, kết phúc của làng. Kiến trúc miếu trước đây, theo mặt bằng nền móng còn lại và miêu tả của các bậc cao niên địa phương cho thấy, đây là một công trình kiến trúc khá đồ sộ, gồm 13 gian (5 gian cung ngoài, 5 gian cung trong và 3 gian cung cấm), được nhân dân trong vùng suy tôn là một trong những cõi linh nổi tiếng của vùng Vĩnh Lại xưa, nay là Vĩnh Bảo, Hải Phòng. Trong những năm kháng chiến chống Pháp, miếu là chỗ dừng chân, che chở cán bộ hoạt động bí mật, là địa điểm làm việc của uỷ ban kháng chiến địa phương và có thời kỳ là nơi đóng quân của các đơn vị bộ đội chủ lực...Cũng vì trở thành cơ sở kháng chiến như vậy mà 2 toà miếu trong và miếu ngoài bị giặc Pháp phá huỷ hoàn toàn, chỉ lưu lại nền móng nhấp nhô, ghi dấu quy mô xưa của công trình.
Miếu Ngà hiện nay có diện tích khá rộng, cảnh quan thoáng đẹp, gồm 5 gian tiền đường, 3 gian cung cấm tạo thành bố cục kiểu chữ Đinh. Tòa bái đường mới được địa phương tu bổ, tôn tạo năm 2008 bề thế và vững chắc. Mái lợp ngói ta, bờ nóc đắp vẽ theo đúng khuôn thước trang trí trên các công trình văn hóa cổ. Tại đây bài trí các đồ thờ cùng các bức cuốn thư, câu đối, nhang án, khám thờ, kiệu rước...được sơn son thếp vàng rực rỡ tỏ lòng thành kính đức Thành Hoàng và uy linh nơi thờ tự. Tiêu biểu phải kể đến một số di vật, trong đó khám thờ (niên đại đầu thế kỷ XIX) được thể hiện như một ngôi lầu nhỏ, tạo dáng “chân quỳ dạ cá”, diềm quanh chân chạm “lưỡng long chầu hổ phù”, “phượng hàm thư”; viền cửa là những vách gỗ cong gồm 2 lớp chạm thủng các đề tài “lão trúc hoá long”, “rùa đội lá sen”, “lão lựu hoá long”, cuốn thư, tứ quý...Thứ hai phải kể đến là nhang án tiền, mặt ngoài chạm nổi long mã, thân chia làm 3 ô trang trí đối xứng nhau gồm các hình vuông, lục giác, quả trám, chữ nhật, chạm thủng đề tài “phượng hàm thư”, “long mã hý cầu”, “hổ ngậm chữ thọ”, “hoa cúc mãn khai”...Tiếp theo là bức cuốn thư treo tại gian giữa toà tiền đường, tạo hình cuốn sách mở, hai đầu cuộn tròn như ống quyển, chính giữa đắp nổi bài minh gồm 37 chữ Hán. Nền hai bên trang trí hoa văn liếp đan và cánh sen dẹo. Đỉnh trán chạm thủng “lưỡng long chầu hoa cúc mãn khai”, “lão cúc hóa rồng”. Đội cuốn thư là hổ phù ngậm chữ Thọ.
Cung trong, nơi an tọa của thần vị đặt 2 bộ long ngai và bài vị được làm giống hệt nhau. Thân ngai được tạo bởi tay ngai cong hình cánh cung, hai bên tạo đầu rồng. Nối tay ngai với mặt đế là những chấn song, con tiện thể hiện những thân rồng uốn quanh. Lưng ngai là vách gỗ cong hình lòng thuyền chạm thủng “lưỡng long chầu nguyệt”, “phượng múa”, “long mã”, “rùa đội lá sen”. Đế 3 tầng làm kiểu “chân quỳ dạ cá”. Bài vị đặt trong làm kiểu đế trụ đấu thắt giữa, thân 2 diềm tạo đao lửa, giữa khắc chữ “Đương cảnh Thành Hoàng Chính Tín quân sĩ Đại vương”. Tại đây, còn đôi chóe (niên đại thế kỷ XVIII) thân phình, dáng quả bồng, có 4 tai hình hổ phù, men lam, trang trí long, phượng, hoa cúc, điệp chữ “phượng vĩ thanh mỹ”. Đây là những hiện vật hết sức có giá trị minh chứng cho truyền thống bảo tồn và phát huy giá trị di sản văn hoá của các thế hệ người dân địa phương.
Ngoài công trình kiến trúc chính, khu miếu còn có các công trình mới được xây dựng như nhà khách, hồ nước, tam quan...tạo nên một không gian đẹp, liên hoàn hoà quyện với cảnh quan thiên nhiên của một vùng quê thanh bình, yên ả.
Lễ tiết hàng năm tại miếu gồm các ngày: sinh nhật tướng công (10/9 âm lịch); ngày hóa (12/3 âm lịch); ngày khánh hạ (12/12 âm lịch). Song, hội chính được tổ chức vào 3 ngày (từ 10 tháng 3 đến hết ngày 12 tháng 3 âm lịch). Trong suốt những ngày này, dân làng tổ chức nghi thức tế thần có rước kiệu. Trai làng được tuyển chọn vào phụng nghinh phải chay tịnh, không vướng tang trở. Trang phục đội rước đồng nhất, con trai quần trắng, áo nâu; con gái vấn khăn đuôi gà màu đỏ, mặc áo tứ thân; các cụ cao tuổi đội khăn xếp áo chùng lương. Đám rước nghi vệ Thành Hoàng còn là một tập hợp âm thanh của nhạc cụ dân tộc: nhị hồ, sáo, chiêng, trống, tù và mang màu sắc riêng biệt của một làng quê nông nghiệp có nguồn gốc từ lâu đời. Xưa hội còn tổ chức khảo văn, thi thơ, hát đối, hát ví, đấu quyền, đấu vật với không khí thật rộn ràng, náo nhiệt và để lại những ấn tượng sâu sắc trong trí nhớ của nhân dân hàng xã, hàng tổng với những câu truyền miệng “trai Ngà gái Đợn” nổi tiếng một thời.
Trải qua bao năm tháng, ngôi miếu cùng những phong tục hội hè đã đi vào đời sống tâm linh, trở thành một nét đẹp văn hóa rất riêng của quê hương Vĩnh Thịnh. Đến tham quan nơi đây, chúng ta càng thêm hiểu, thêm yêu và tự hào về quê hương, về các di sản văn hóa mà cha, ông đã làm nên, để lại cho con cháu muôn đời mai sau. Từ những giá trị nêu trên, di tích miếu Ngà đã được Bộ Văn hoá-Thông tin xếp hạng là di tích lịch sử-văn hoá theo Quyết định số 3211/QĐ-BT ngày 12/12/1994.